Tác giả gốc: David, W3.Hitchhiker
Kể từ tháng 9, các rủi ro về địa chính trị và thị trường tài chính liên tiếp xuất hiện và thị trường toàn cầu đã chuyển sang lãnh thổ ngày càng xa lạ dưới sự dẫn dắt của chính sách siêu diều hâu của Fed. Bằng cách phân tích những động thái mới nhất ở ba thị trường địa phương, chúng ta có thể tiến gần hơn đến lượt của Fed.
1. Tình trạng thắt chặt thanh khoản nợ của Mỹ đã lên đến mức tháng 3/2020
Đầu tháng 10, vấn đề thanh khoản trên thị trường trái phiếu kho bạc Mỹ bước sang một giai đoạn mới: Các chỉ số đo lường thanh khoản trái phiếu Mỹ của Bloomberg cho thấy mức độ thắt chặt thanh khoản của thị trường đã lên đến mức của tháng 3/2020.
Vào tháng 3 năm 2020, khi thị trường Kho bạc Hoa Kỳ sụp đổ do bán tháo hoảng loạn, Fed đã can thiệp để mua trái phiếu với tư cách là người mua cuối cùng. Và mức thanh khoản hiện tại có thể chỉ ra khả năng Fed sẵn sàng mua trái phiếu bất cứ lúc nào - ngay cả khi Fed hiện đang thực hiện cái gọi là thắt chặt định lượng.
"Thị trường trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ là thị trường chứng khoán quan trọng nhất trên thế giới và là huyết mạch đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia của chúng ta. Bạn không thể chỉ nói 'chúng tôi hy vọng tình hình sẽ tốt hơn', bạn phải hành động để cải thiện nó."
Bộ trưởng tài chính Mỹ ra văn bản ngày 11/10 khẳng định ông không thấy điều gì đáng lo ngại trên thị trường tài chính. Anh ấy đã thay đổi quan điểm của mình một ngày sau đó, nói rằng "việc thiếu thanh khoản trên thị trường Kho bạc là một vấn đề đáng lo ngại."
2. Thu nhập của Fed bắt đầu âm
Sau nhiều lần tăng lãi suất, các khoản thanh toán lãi suất của Fed đã vượt quá thu nhập từ lãi do danh mục đầu tư trái phiếu nắm giữ thông qua QE.
Trong mười năm qua, doanh thu của Cục Dự trữ Liên bang về cơ bản là khoảng 100 tỷ đô la Mỹ, được chuyển trực tiếp vào Kho bạc Hoa Kỳ. Một số ước tính cho rằng sự thiếu hụt do tăng lãi suất trong năm nay có thể lên tới 300 tỷ đô la Mỹ (chi tiêu quân sự của Hoa Kỳ năm ngoái là khoảng 800 tỷ đô la Mỹ). Đồng thời, do QT, giá trái phiếu giảm mạnh khiến Fed phải bán trái phiếu với giá có thể phải thấp hơn nhiều so với giá mua, trở thành khoản lỗ chưa thực hiện (non-cash item).
Cục Dự trữ Liên bang sẽ không phá sản, đối mặt với một lỗ hổng lớn, nó có thể hoặc là hoàn toàn phớt lờ nó, hoặc là nó có thể bắt đầu lại việc in tiền.
Nói tóm lại, lãi suất cao hơn sẽ chỉ làm tăng tình trạng đốt tiền mặt ở mọi nơi trong Fed và Kho bạc. Họ sẽ nhanh chóng nhận ra rằng họ đã hoàn toàn bị mắc bẫy. Họ không thể chế ngự lạm phát mà không tự phá sản một cách hiệu quả. Tất nhiên, các ngân hàng trung ương không phá sản -- thay vào đó, họ có thể quay đầu với cơn bão tăng lãi suất và lạm phát.
3. "Khoảnh khắc Lehman 2.0" đang tiến gần hơn
Gần đây, thị trường hỗn loạn, Credit Suisse và các quỹ hưu trí của Anh lần lượt gặp nguy hiểm.
Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, việc truyền rủi ro liên cơ quan này tương tự như hình sau: Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, việc truyền rủi ro liên cơ quan này tương tự như hình sau:
Vậy sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, liệu có khả năng một cuộc khủng hoảng ngân hàng mới tái diễn?
Trước ngày Quốc khánh, một số hãng tin đã đặt câu hỏi liệu Credit Suisse có thể báo trước một "thời điểm Lehman" khác hay không. "Khoảnh khắc Lehman" đề cập đến sự sụp đổ của Lehman Brothers, ngân hàng đầu tư 158 năm tuổi ở Phố Wall, vào ngày 15 tháng 9 năm 2008, trong cuộc khủng hoảng tài chính ngày càng lan rộng của Phố Wall. Lehman Brothers là ngân hàng lớn duy nhất trên Phố Wall mà Cục Dự trữ Liên bang cho phép phá sản.
Vào thời điểm Lehman phá sản, nó có hơn 900.000 hợp đồng phái sinh mở và sử dụng các ngân hàng lớn nhất của Phố Wall làm đối tác cho nhiều giao dịch đó, theo tài liệu của Ủy ban Điều tra Khủng hoảng Tài chính. Dữ liệu cho thấy Lehman và JPMorgan có hơn 53.000 hợp đồng phái sinh; Morgan Stanley hơn 40.000; Citigroup hơn 24.000; Bank of America hơn 23.000; Goldman Sachs gần 19.000.
Theo báo cáo kết luận phân tích khủng hoảng do cơ quan này ban hành, cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 chủ yếu do các nguyên nhân sau:
"Các công cụ phái sinh phi tập trung đã góp phần gây ra cuộc khủng hoảng theo ba cách quan trọng. Thứ nhất, một loại công cụ phái sinh - hợp đồng hoán đổi nợ xấu (CDS) - đã thúc đẩy sự phát triển của chứng khoán hóa thế chấp. CDS đã được bán cho các nhà đầu tư, để bảo vệ khỏi tình trạng vỡ nợ hoặc suy giảm trong giá trị của các chứng khoán liên quan đến thế chấp được hỗ trợ bởi các khoản vay rủi ro.”
"Thứ hai, CDS rất quan trọng đối với việc tạo ra các CDO tổng hợp. Các CDO tổng hợp này chỉ đơn giản đặt cược vào hiệu suất của các chứng khoán thực liên quan đến thế chấp. Chúng khuếch đại các khoản lỗ từ vụ phá sản nhà đất bằng cách cho phép nhiều lần đặt cược vào cùng một chứng khoán và giúp lan truyền chúng trên toàn thế giới." hệ thống tài chính.”
"Cuối cùng, các công cụ phái sinh là trung tâm của cơn bão khi bong bóng nhà đất vỡ và khủng hoảng xảy ra sau đó. AIG không bắt buộc phải dành dự trữ vốn như một vùng đệm để bảo vệ việc bán hàng của mình, nhưng đã được cứu trợ khi không thể đáp ứng các nghĩa vụ của mình. Đến hạn trước những lo ngại Sự sụp đổ của AIG sẽ gây ra tổn thất theo tầng trên toàn hệ thống tài chính toàn cầu, với việc chính phủ cuối cùng cam kết cung cấp hơn 180 tỷ đô la. thị trường không được kiểm soát này - làm tăng thêm sự không chắc chắn và gây ra sự hoảng loạn, giúp thúc đẩy viện trợ của chính phủ cho các tổ chức này.”
Mười lăm năm sau cuộc khủng hoảng, chúng ta có gặp rủi ro tương tự đối với hệ thống tài chính không?
Vào ngày 29 tháng 9, OFR (VĂN PHÒNG NGHIÊN CỨU TÀI CHÍNH), một công ty con của Cục Dự trữ Liên bang, đã phân tích xem ngân hàng chọn ai làm đối tác trong thị trường phái sinh phi tập trung (OTC).giấy làm việc, các tác giả nhận thấy rằng các ngân hàng có nhiều khả năng chọn các đối tác phi ngân hàng đã có mối liên hệ chặt chẽ và chịu rủi ro cao hơn của các ngân hàng khác, điều này dẫn đến kết nối với các mạng dày đặc hơn. Hơn nữa, thay vì phòng ngừa rủi ro này, ngân hàng tăng rủi ro bằng cách bán thay vì mua CDS với các đối tác này. Cuối cùng, các tác giả nhận thấy rằng rủi ro phổ biến đối với các đối tác vẫn liên quan đến các biện pháp rủi ro hệ thống mặc dù các quy định đã được gia tăng sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.
Nói một cách đơn giản, một khi ngân hàng quan trọng mang tính hệ thống đổ vỡ, hệ thống tài chính sẽ vẫn có phản ứng dây chuyền mang tính hệ thống như năm 2008.
Vì vậy, Fed có cần phải quay đầu lại như Ngân hàng Nhật Bản và Ngân hàng Anh không?
liên kết gốc
